Xe đạp ơi!
Với nhiều người, xe đạp đã là một phần của cuộc sống. Một cuộc sống nhiều thương khó, lắm lo toan nhưng cũng đầy lãng mạn. Nhưng rồi cái thời ấy cũng chóng qua.
Lần đầu ngạo nghễ xuất hiện trên phố Hà Nội, Sài Gòn cách đây một thế kỷ, chẳng ai nghĩ có ngày xe đạp bị xe máy, ô tô “chèn” sát vào lề đường như hôm nay.
Ngày xưa, nghĩa là những ngày đầu thế kỷ 20, xe đạp từ Saint Etienne nước Pháp lần đầu đến Việt Nam thong dong và kiêu hãnh trôi thanh thoát trên những thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn. Các cậu ấm, cô chiêu, quan bác đang chễm chệ ngồi trên những chiếc xe kéo ai ai cũng phải ngoái đầu nhìn cái thứ phương tiện tân kỳ. Lịch lãm làm sao khi chỉ ngồi trên xe, hai chân đạp nhè nhẹ mà xe cứ bon bon, chả cần những bước chân huỳnh huỳnh của các bác phu kéo xe lưng đẫm mồ hôi.
Sau “màn chào hỏi” ngoạn mục ấy, xe đạp nhanh chóng chiếm được cảm tình của giới trung lưu ở thành thị Việt Nam. Cho dù khi đi xe đạp phải có đủ chuông và phải cầm theo đèn vào buổi tối như trong chuyện Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng thì xe đạp vẫn mang lại một sức sống mới cho đường, cho phố, cho những con ngõ nhỏ. Từ đó đến thời kỳ đổi mới, xe đạp trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống ở Việt Nam.
Xe đạp thời bi tráng
Những chiếc xe đạp thồ, với sức tải lên đến hai ba trăm cân mỗi xe, “được điều khiển bởi những con người ăn không thật no và ngủ thì nằm ngay trên mảnh nilong rải trên mặt đất” – nói như lời của ký giả Pháp G. Roa, đã đánh bại quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Và rồi cũng chính những chiếc xe đạp đó, lại lầm lũi Nam tiến. Trên những ngả đường Trường Sơn, tuổi đời của những chiếc xe đạp có khi nhiều hơn tuổi đời của cả cha và con cộng lại. ở tiền tuyến, xe đạp là một phương tiện anh hùng. ở hậu phương, nó tần tảo, đảm đang như một người chị, người mẹ. Xe đạp nhọc nhằn hàng trăm cây số đường đất đi sơ tán, xe đạp chở cả nhà (và gia sản gồm chăn màn, lợn gà, rau gạo) xuống phà qua sông, xe đạp chui xuống cả hầm trú ẩn. Chuyện bây giờ nghe như cổ tích. Nhưng ngày đó, thật khó mà tưởng tượng người Việt sẽ đi qua chiến tranh thế nào nếu không có chiếc xe đạp.
Bước vào thời bình, xe đạp vẫn tiếp tục đạp. Xem lại những thước phim tư liệu, chỉ thấy khắp phố phường toàn nó và tàu điện. Cái náo nhiệt phố xá hồi ấy chỉ là tiếng leng keng chuông tàu điện, tiếng reng reng chuông xe đạp và những tiếng rao hàng rong mà thôi. Rất nhiều thứ có thể bán rong bằng xe đạp. Những cô gái làng Ngọc Hà hay Nhật Tân đội nón trắng, đèo theo mẹt hoa tươi đầy màu sắc. Ông già bán kẹo kéo với cái hộp gỗ đựng đầy kẹo nhân lạc đằng sau. Những xe đạp toàn những dây bóng bay hay giá đồ chơi nhựa đỗ trước cửa công viên khiến trẻ con hoa mắt… Cũng rất nhiều đôi lứa đã đến với nhau bằng xe đạp. Rất nhiều thế hệ lớn lên giữa những chiếc xe đạp. Giật mình nhớ lại, hóa ra sự hiện diện của xe đạp quá ư gần gũi và thân thân thiết trong mấy chục năm. Nó góp phần tạo ra màu sắc của những thành phố đơn sơ, yên tĩnh, trong lành, không khói xe máy và rất ít khói ô tô ngày trước. Nó gần gũi đến độ người ta quên mất sự hiện diện của nó. Kỳ lạ thế.
Sở hữu được một chiếc xe cà tàng hồi đó đã là tốt lắm. Có xe rồi sẽ được cấp cho cái sổ để có thể mua phụ tùng. Có khi phải mất đến vài năm, và phải đổi chéo vô số tiêu chuẩn khác thì mới sắm đủ phụ tùng cho xe đạp. Thế nên mới có chuyện một đôi lốp được định giá tương đương hai cái quần đùi cộng năm bánh xà phòng cộng một cái ấm nước, đại khái thế. Thế nên mới có chuyện lỡ lốp xe đạp có mòn quá cũng phải buộc thêm dây chun vào những chỗ bị “bụng chửa” mà đi, còn khung thì đã mấy lần gỉ sét, sơn đi sơn lại đến nỗi không còn nhận ra nó là màu gì nữa. Lớp trẻ bây giờ có vô số lựa chọn để làm đẹp cho những chiếc xe máy.
Nhưng những tháng năm bao cấp, có đủ đồ cho một chiếc xe đạp thành hình đã là cả một chiến công rồi. Bởi vậy, không ít nhà khi có xe thì chẳng dám đi mà chỉ treo lủng lẳng lên xà ngang gác xép, thỉnh thoảng lôi xuống lau và bơm lốp. Và cũng bởi vậy, những chiếc xe đạp ngọai nhập thường có giá bằng cả một gia tài. Sự kiêu hãnh của một cô gái thả tóc dài trên chiếc xe Mifa ba mươi năm trước có khi còn lớn hơn cả việc mặc váy Prada đi SH bây giờ. Độ tự tin của một chàng trai tuổi gần đôi mươi, quần bò rách, áo phông màu mè lượn trên một chiếc xe cuốc, và nhất là lại có một một cô bạn gái ngồi gióng ngang, ngày ấy có khi chẳng kém gì với việc một cậu ấm bây giờ vào quán, mở laptop Vaio và nghe điện thọai Vertu.
Thời oanh nay đã liệt?
Năm 1986, lúc thông xe cây cầu hiện đại Chương Dương vắt ngang sông Hồng, người ta bảo cầu này không có làn đường dành cho xe đạp. Thế là các anh đi xe “thô sơ” mới ớ ra rằng mình đã lạc hậu lắm rồi. Các nhà có xe máy đua nhau chạy èn èn vài vòng trên cầu cho bõ cơn sĩ diện. Xe đạp tần ngần tủi thân đứng dưới chân cầu. Sóng sông Hồng lao xao buồn câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo: “Bây giờ yêu nghĩa là vèo xe cúp/ Xe đạp anh xịt lốp cả tư mùa.” Thi sỹ “bụi đời” Bùi Chí Vinh tếu một cách chua chát “Anh chở tình anh trên xe đạp/ Mặc ai kia ngó, mặc ai dòm/ Dễ gì mang một cô công chúa/ Đặt vào xe rồi khẽ cúi hôn/ Anh chở em đi bằng xe đạp/ Mồ hôi ra đẫm hết vai gầy/ Thương ghê ngọn gió sau lưng ấy/ Thổi mát đời anh trong cánh tay./ Cảm ơn em dám ngồi xe đạp/ Để cho anh quên mất mình nghèo/ Cảm ơn em đã không đánh phấn/ Nhìn anh bằng con mắt trong veo.”
Năm đó cũng chấm dứt thời bao cấp 75-86. Câu vè dân gian “Đẹp trai đi bộ không bằng mặt rỗ đi Lơ” biệt tích giang hồ, nhường chỗ cho câu mới “Một trăm câu nói không bằng một làn khói Honda.” Để đến ngày hôm nay, muốn biết thế nào là xe Lơ (tức là Peugeot), các bạn trẻ phải mua vé vào bảo tàng dân tộc học để xem triển lãm về thời bao cấp. Vào đó, còn để chứng kiến những cảm xúc về xe đạp một thời. Thấm thoát đã hai thập kỷ, giờ này hỏi các bạn thanh niên có biết đến Phượng Hoàng, Mifa, Esca, Favourit thì chẳng khác gì hỏi các cụ về hưu có biết thế nào là Yahoo, Google và Microsoft.
Xe đạp càng ngày càng bị ép vào sát lề đường, vốn là chỗ nhiều ổ gà nhất. Xe máy, ô tô lấn át nó đến độ người ta phải làm những làn đường riêng [tiêu tốn hàng triệu đô la Mỹ] để xe đạp không bị bắt nạt giữa phố phường. Chẳng mấy chốc các bác tài ô tô thấy phần đường ấy thực là chỗ đỗ xe cực kỳ thuận tiện. Thế là xe đạp lại phải lượn vòng ra giữa đường mới đi được. Xe máy, ô tô lại còi pim pim, lại cằn nhằn, thậm chí là mắng mỏ. Của đáng tội xe đạp giờ chẳng còn cái oai vệ hừng hừng áp đảo như ngày xưa. Cái ngày mà bất cứ đường nào cũng nghiễm nhiên là đường dành cho xe đạp đã qua lâu rồi. Làn đường dành riêng cho nó giờ này có lẽ chỉ còn ý nghĩa tượng trưng, nhất là vào lúc tan tầm.
Đoạn kết buồn
Chả hiểu sao, tôi luôn bị ám ảnh bởi câu hát “Xe đạp ơi, đã xa rồi còn đâu…” của anh Ngọc Lễ. Câu hát ấy như một lời khóc thương cho sự yếm thế của một trong những thứ phương tiện giao thông tuyệt vời nhất trong lịch sử loài người. Không khói, rẻ tiền, nhẹ nhàng, chiếm ít diện tích, sử dụng năng lượng là chính các hành khách và rồi lại mang đến sức khỏe cho các hành khách đó. Mỗi tội chậm hơn những thứ đắt tiền và khói mù trời khác.
Ừ thì xe đạp không còn là một thứ tài sản quý giá đến độ đi thì ít mà để treo lên thì nhiều trong các gia đình. Ừ thì xe đạp không nhanh như xe máy. Ừ thì đạp xe có toát mồ hôi ra chút ít… Nhưng bù lại, nó gọn gàng, nhẹ nhàng tốn ít chỗ trên đường. Xe đạp chạy nhanh vừa đủ để nói dại nếu có ngã xe cũng ít người bị chấn thương sọ não hơn. Càng toát mồ hôi càng khỏe người chứ sao đâu? Hơn thế nữa, đi xe đạp không chỉ là gìn giữ một nét văn hóa đã từng gắn bó với nhiều thế hệ người Việt Nam trong cả một thế kỷ qua, mà còn là giúp giữ lại những thành phố đẹp, yên tĩnh và sạch sẽ đang dần mất hẳn. Xe đạp đâu đáng để bị đối xử như một thứ đồ lạc hậu?